Khoa học phát triển đã tìm ra nguyên nhân rối loạn chuyển hóa đường do thiếu hụt insulin dẫn đến tiểu đường. Vậy từ xưa, con người chúng ta chữa bệnh này như thế nào?
Nguyên nhân dẫn đến đường huyết cao
Chỉ số đường huyết ở người bình thường
- Khi đói: Mức độ đường từ 70mg/dl đến dưới 130mg/dl (tương ứng với 4,0 - 7,2 mmol/ l)
- Sau khi ăn: Lượng đường huyết từ 130mg/dl đến 180 mg/dl
Nếu chỉ số cao hơn mức bình thường trên được cho là đường huyết cao.
Đường trong máu tăng cao có thể xuất phát từ những nguyên nhân sau:
- Chế độ ăn uống sử dụng quá nhiều đường tinh luyện, chất ngọt hóa học, chất tạo ngọt. Đây là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến việc khó giảm lượng đường huyết.
- Sử dụng thuốc không đúng cách gây ảnh hưởng đến tụy
- Dùng nhiều chất kích thích, thực phẩm làm tuyến tụy bị ảnh hưởng
- Ít vân động, ngủ quá ít
Đường huyết tăng là việc bình thường, đặc biệt là sau bữa ăn. Tuy nhiên, đường huyết tăng do thiếu hoặc kháng insulin mới là nguyên nhân chính gây rối loạn chuyển hóa đường và dẫn đến bệnh tiểu đường.
Insulin là gì?
Insulin là một loại hormone tiết ra từ các tuyến tụy, có vai trò tác động trực tiếp lên quá trình chuyển hóa glucid, lipid và protein.
Khi cơ thể thiếu insulin, quá trình chuyển hóa glucose thành năng lượng sẽ bị ảnh hưởng. Không chỉ có vậy, Insulin rất cần thiết trong quá trình chuyển hóa chất béo. Nếu thiếu insulin sẽ gây ra tình trạng tăng mỡ máu, dẫn tới tình trạng xơ vữa động mạch.
Ngoài ra, insulin đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển hóa chất đạm, chuyển hóa các mô mỡ thành năng lượng nhằm giúp cơ thể duy trì hoạt động sống.
Insulin đóng vai trò gì trong việc giảm lượng đường huyết
Như đã chia sẻ, Insulin có vai trò rất quan trọng trong việc giảm đường máu bằng cách chuyển hóa chúng thành năng lượng. Insulin không đủ để chuyển hóa glucose trong quá trình dài mới dẫn đến bệnh đái tháo đường. Từ đây, Y học phân chia tiểu đường thành hai loại chính
- Tiểu đường type 1: do phá hủy tế bào beta tụy, dẫn đến thiếu insulin tuyệt đối.
- Tiểu đường type 2: do giảm chức năng của tế bào beta tụy tiến triển trên nền tảng đề kháng insulin.
- Và còn có đái tháo đường thai kỳ: là đái tháo đường được chẩn đoán trong 3 tháng giữa hoặc 3 tháng cuối của thai kỳ.
Rối loạn chuyển hóa đường galactose không được xếp vào triệu chứng có nguy cơ dẫn đến tiểu đường
Người xưa bị đường huyết cao đã làm gì
Các triệu chứng của bệnh tiểu đường lần đầu tiên được y học biết đến vào năm 1552 trước Công nguyên, do một bác sĩ người Ai Cập có tên là tên là Hesy-Ra ghi chép lại.
Năm 150 sau Công Nguyên, bác sĩ người Hy Lạp Arateus đã mô tả bệnh này là "sự tan chảy của thịt và chân tay thành nước tiểu".
Sushruta, Arataeus và Thomas Willis là những người đầu tiên trong việc đi tìm câu trả lời cho việc giảm lượng đường trong máu bằng cách nào. Các bác sĩ Hy Lạp chỉ định tập thể dục - tốt nhất là cưỡi ngựa để giảm bớt tình trạng đi tiểu nhiều. Một số hình thức trị liệu khác được áp dụng cho bệnh tiểu đường bao gồm rượu vang, cho ăn quá nhiều để bù lại lượng chất lỏng mất đi, chế độ ăn kiêng.
Vào thời Trung cổ, Rhazes là một bác sĩ triều đình ở Baghdad, ông đưa ra phương pháp điều trị bệnh tiểu đường bằng cách sử dụng hỗn hợp lupin, trigonella và hạt zedoary.
Vào những năm ở thế kỷ 18, 19, các bác sĩ bắt đầu nhận ra rằng thay đổi chế độ ăn uống có thể giúp kiểm soát bệnh tiểu đường, và họ khuyên bệnh nhân của mình nên làm những việc như chỉ ăn mỡ và thịt động vật hoặc tiêu thụ một lượng lớn đường.
Năm 1916, nhà khoa học Boston Elliott Joslin là một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về bệnh tiểu đường đã đưa ra chế độ ăn kiêng kết hợp với tập thể dục thường xuyên có thể làm giảm đáng kể rối loạn chuyển hóa đường và nguy cơ tử vong ở bệnh nhân tiểu đường.
Frederick Banting, một bác sĩ ở Ontario, Canada, lần đầu tiên có ý tưởng sử dụng insulin để điều trị bệnh tiểu đường vào năm 1920, và ông cùng các đồng nghiệp bắt đầu thử nghiệm lý thuyết của mình trong các thí nghiệm trên động vật. Banting và nhóm của ông cuối cùng đã sử dụng insulin để điều trị thành công cho một bệnh nhân tiểu đường vào năm 1922 và được trao giải Nobel Y học vào năm sau đó.